Ly hôn khi không biết địa chỉ bị đơn

1. Xác định nơi cư trú, nơi cư trú cuối cùng của bị đơn     

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, nếu không biết nơi cư trú của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết.

Theo đó, nơi cư trú và nơi cư trú cuối cùng của bị đơn được xác định như thế nào?

Đối chiếu quy định tai Điều 12 Luật Cư trú 2006, nơi cư trú là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống, có thể là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.

Trường hợp không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống.

Hiện nay, chưa có quy định thế nào là nơi cư trú cuối cùng, tuy nhiên, nơi cư trú cuối cùng được hiểu là nơi cuối cùng mà nguyên đơn, người yêu cầu biết được người đã biệt tích thường xuyên sinh sống hoặc sinh sống tại đó trước khi biệt tích.

Lưu ý:

  • Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
  • Địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được hướng dẫn tại khoản 1 Điều 5 Nghị quyết 04/2014/NQ-HĐTP.
  • Trường hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết này thì Tòa án phải nhận đơn khởi kiện và xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung.

2. Điều kiện tuyên bố mất tích và ly hôn với người mất tích

Trường hợp Tòa án không thụ lý đơn khởi kiện thì có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích.

Theo khoản 1 Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015, khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp:

Thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.

Trong đó, thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó.

  • Nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng;
  • Nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

Do đó, nếu đủ điều kiện nói trên thì có thể làm Đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định tại Điều 381 Bộ luật Tố tụng dân sự. Sau khi thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú thì có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là mất tích nếu đáp ứng các điều kiện nêu trên.

Theo đó, trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.

Khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định, trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Như vậy, sau khi quyết định của Tòa án tuyên bố người chồng mất tích có hiệu lực pháp luật thì Tòa án sẽ xem xét, giải quyết cho ly hôn.

Mọi thắc mắc Quý khách hàng vui lòng liên hệ theo thông tin sau:

Văn phòng luật sư Văn Danh & Cộng sự
Trụ sở: Số 288 đường Nguyễn Trãi, phường Hà Huy Tập, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Điện thoại: 0978 577 768 – 0946 086 432
Email: lsvandanh@gmail.com
Website: https://luatnghean.vn – https://luatnghean.com

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *